MANG CHÚA ĐẾN CHO NGƯỜI KHÁC
(Xp 3:14-18a; Lc 1:39-56)
Lm. An-tôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính lễ Mẹ Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét. Đây là một trong những lễ quan trọng có nền tảng trong Kinh Thánh để mừng kính Mẹ Maria. Đây cũng là lễ mà qua đó chúng ta rút ra được nhiều bài học bổ ích cho tương quan của chúng ta với những người khác, nhất là với những người thân đang cần chúng ta giúp đỡ.
Không ai trong chúng ta muốn sống cô độc. Chúng ta sinh ra là sống với và sống cho nhau. Sự “lệ thuộc” vào nhau này được diễn tả cách cụ thể qua những lần chúng ta đi thăm nhau. Có những cuộc thăm viếng vì bắt buộc, nhưng cũng có những cuộc thăm viếng được thực hiện cách tự do; có những cuộc thăm viếng với ý hướng tốt, nhưng cũng có những cuộc thăm viếng với ý hướng xấu; có những cuộc thăm viếng xảy ra vì yêu thương, nhưng cũng có những cuộc thăm viếng mang lại hận thù. Thật vậy, có nhiều lý do và nhiều hoàn cảnh để thăm viếng nhau. Từ trong thâm sâu của cõi lòng, chúng ta muốn được người khác thăm viếng, nhất là trong những lúc cô đơn, khó khăn và thử thách. Nhưng cũng có một số người trong chúng ta không muốn người khác đến thăm vì chúng ta sợ phải cởi mở, sợ bị làm phiền và sợ phải yêu thương và tha thứ. Cuộc thăm viếng giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét mà chúng ta kính nhớ hôm nay khác với tất cả những cuộc thăm viếng khác. Đây là cuộc thăm viếng không chỉ của một người mẹ cho một người mẹ, nhưng là cuộc thăm viếng của Thiên Chúa cho dân của Ngài. Đây là một cuộc thăm viếng tràn ngập niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui này được ngôn sứ Xôphônia diễn tả cách tuyệt diệu như sau: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14).
Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta thấy một trong những hệ quả khi chúng ta có được niềm vui ơn cứu độ, đó là chúng ta không còn sợ hãi, vì chúng ta có Đức Chúa đang hiện diện với chúng ta: “‘Này Xion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.’ Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Trong cuộc sống, chúng ta có nhiều nỗi sợ hãi khác nhau. Nhiều khi chúng ta để cho những nỗi sợ hãi cướp đi niềm tin và hy vọng của chúng ta vào Chúa. Hệ quả là chúng ta luôn sống trong lo âu, buồn phiền và bất an. Nhưng nếu chúng ta để cho Chúa “viếng thăm” và ở lại với mình, chúng ta sẽ nhận ra rằng, Ngài là Đấng anh hùng, là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và cái chết muôn đời. Không những thế, Ngài còn là Đấng lấy tình thương của Ngài để đổi mới chúng ta, để rồi chúng ta trở thành niềm vui cho người khác. Những người có Chúa là những người luôn sống với niềm vui sâu kín trong tâm hồn và làm cho những người họ gặp gỡ cũng cảm nghiệm được niềm vui được Chúa yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay vẽ ra trước mặt chúng ta hình ảnh thật tuyệt vời của một cuộc gặp gỡ đầy yêu thương và chan chứa niềm vui giữa hai người mẹ và hai người con. Thật cảm động khi vừa được tin người chị họ của mình là bà Êlisabét mang thai được sáu tháng, Mẹ Maria liền vội vã “đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” để thăm bà. Chúng ta không biết động lực thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm viếng bà Êlisabét là gì vì không được trình bày rõ ràng trong Kinh Thánh. Các học giả về Kinh Thánh có những ý kiến khác nhau về điểm này: (1) một số cho rằng động lực chính thúc đẩy Mẹ Maria thăm viếng bà Êlisabét là muốn giúp bà trong những ngày tháng cuối của thời kỳ mang thai, trước khi sinh con; (2) một số khác cho rằng Mẹ Maria đến viếng thăm bà Êlisabét vì Mẹ muốn chia sẻ niềm vui có Chúa cho người chị họ của mình. Mẹ muốn chia sẻ niềm vui được Chúa làm cho mình điều trọng đại như đã làm cho người chị họ; (3) nhưng cũng có một vài người cho rằng Mẹ đi viếng thăm vì Mẹ muốn kiểm chứng lời của Thiên Thần về người chị họ của mình. Dù không được trình bày cách rõ ràng, nhưng chúng ta có thể tin chắc rằng Mẹ không cần phải kiểm chứng vì Mẹ đã và đang cảm nghiệm những sự cao trọng hơn điều đã xảy ra cho bà Êlisabét trong cuộc đời của Mẹ. Điều chúng ta có thể khẳng định ở đây là động lực thúc đẩy Mẹ đi viếng bà Êlisabét có thể là cả hai, đó là đi để giúp người chị họ của mình đồng thời mang Chúa đến cho người chị họ và người con. Trong những cuộc viếng thăm của chúng ta dành cho nhau, đâu là động lực thúc đẩy chúng ta? Có phải các cuộc viếng thăm của chúng ta đều chan hoà niềm vui của Chúa không?
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần 1 (Lc 1:39-45) trình bày cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Phần này tập trung vào lời chúc mừng và ngợi khen mà bà Êlisabét dành cho Mẹ Maria; phần 2 là “lời đáp từ” của Mẹ Maria trước lời chúc mừng và ngợi khen của bà Êlisabét. Lời đáp từ này được gọi là lời kinh Magnificat [chúng ta đọc mỗi buổi chiều trong Kinh Nhật Tụng]. Chúng ta hãy để Lời Chúa trong lời khen ngợi của bà Êlisabét và đáp từ của Mẹ Maria hướng dẫn chúng ta hôm nay, hầu chúng ta cũng học được nơi Mẹ thái độ yêu thương và biết quan tâm đến nhu cầu của người khác.
Đối với một người đang mang thai trong lúc hiếm muộn, sự thăm viếng của người thân là cơ hội để nói về những điều đang xảy ra cho mình. Tuy nhiên, bà Êlisabét đã không tập trung vào chính mình và những gì Chúa đã làm cho mình, mà tập trung vào Mẹ Maria và những gì Chúa đã làm cho Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Thái độ “quên mình” của bà Êlisabét trước mầu nhiệm của Thiên Chúa đáng để chúng ta học hỏi và bắt chước. Sống trong thế giới bị ảnh hưởng sâu xa bởi chủ nghĩa cá nhân, chúng ta thường quy chiếu mọi sự về mình hơn là về Thiên Chúa và người khác. Thái độ không nói về mình, nhưng thay vào đó là “ngợi khen” Thiên Chúa và người khác là một giá trị cần thiết cho chúng ta hôm nay. Hãy học để biết khen người khác, biết nhìn thấy những kỳ công Chúa làm trên cuộc đời của họ hơn là tìm những lỗi của họ.
Về phần mình, khi được người chị họ chúc mừng và tôn vinh, Mẹ Maria không lấy làm hãnh diện về tất cả những gì mình đang có và đang là. Mẹ quy chiếu mọi sự về Chúa. Hơn nữa, khi phân tích bài Magnificat, chúng ta nhận ra rằng, đây chính là bản tóm tắt của toàn bộ lịch sử của dân Israel. Lịch sử này đạt đến đỉnh cao trong lời “xin vâng” của Mẹ. Mẹ không tập trung vào đặc ân mà Chúa ban cho mình. Mẹ tập trung vào quyền năng và sự trung thành với lời hứa mà Thiên Chúa đã thực hiện với Abraham và giờ đây được thực hiện nơi Mẹ. Trong lời kinh của Mẹ, chúng ta nhận ra những yếu tố cần thiết sau đây cho cuộc sống:
(1) Tâm trí hớn hở vui mừng vì được Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ [“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (Lc 1:46-47)]: Điều này mời gọi chúng ta xem xét lại nguyên nhân của niềm vui trong chúng ta. Tâm hồn chúng ta có tìm thấy niềm vui trong Chúa không? Niềm vui đích thật chỉ tìm được nơi Chúa mà thôi.
(2) Chúa đã để mắt thương đến người mọn hèn [“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1:48)]: Những người khiêm nhường, nhỏ bé là những người được Chúa đoái thương nhìn đến. Những người hèn mọn là ai? Là những người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa; là những người chỉ tìm thấy niềm vui trong Chúa.
(3) Thiên Chúa là Đấng thực hiện những điều cao cả cho những ai kính sợ người [“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:49-50): Danh Thiên Chúa đáng được tôn vinh vì Ngài là Đấng thực hiện những điều cao cả trên cuộc đời của chúng ta. Nhưng điều kiện cần để Ngài thực hiện những điều cao cả là “kính sợ Người.” Sự kính sợ này đến từ tình yêu và sự tôn thờ của chúng ta dành cho Ngài. Nói cách dễ hiểu, khi chúng ta yêu và tôn kính một người nào đó, chúng ta “sợ” những gì làm người chúng ta yêu mến buồn lòng. Việc “sợ” của chúng ta không đến từ sự “tàn bạo” của người mình yêu, nhưng đến từ tình yêu của chúng ta. Đây chính là thái độ mà chúng ta cần có đối với Chúa. Chúng ta kính sợ Chúa vì chúng ta yêu và tôn thờ Ngài, chúng ta không muốn làm cho Ngài buồn vì những lỗi phạm của chúng ta.
(4) Chúa yêu thích người khiêm nhường và kẻ đói nghèo [“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:51-53)]: Người khiêm nhường là những người như thế nào? Họ là những người biết mình là ai và không phải là ai, biết mình làm được gì và không làm được gì. Nói tóm lại, người khiêm nhường là người biết ưu điểm và khuyết điểm của mình; biết mình là ai trước mặt Thiên Chúa và anh chị em của mình. Còn những người nghèo là những người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và chỉ có Chúa là gia nghiệp của đời mình. Chúng ta có thuộc hai loại người này không?
(5) Chúa trung thành với lời đã hứa [“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1:54-55). Thiên Chúa luôn trung thành với lời hứa của mình. Về phần chúng ta, chúng ta cũng đã hứa với Chúa nhiều điều, nhưng chúng ta luôn thất hứa với Ngài. Ai trong chúng ta cũng muốn người khác trung thành với lời họ hứa với mình. Chúa đã hứa và đã trung thành. Còn chúng ta có bắt đầu trung thành với lời hứa của chúng ta với Chúa từ giây phút này không?
“Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Chi tiết cuối cùng này cho chúng ta thấy Mẹ Maria đã ở lại cho đến khi bà Êlisabét sinh hạ người con. Điều này càng làm sáng tỏ động lực thúc đẩy Mẹ đi thăm bà Êlisabét: không phải chỉ vì để kiểm chứng, nhưng là để trợ giúp và chia sẻ niềm vui. Nếu chỉ để kiểm chứng, Mẹ không cần phải ở lâu đến ba tháng. Mẹ ở trọn ba tháng vì Mẹ muốn đồng hành với người chị họ “cho đến cùng,” cho đến cuối hành trình cưu mang và sinh con để trao ban cho thế giới. Chúng ta cần học nơi Mẹ Maria thái độ này, đó là đồng hành với người khác cho đến cùng. Chúng ta không đồng hành chỉ một đoạn đường, hay chỉ những lúc vui, những lúc chúng ta thích. Nhưng cho đến tận cuối hành trình.