QUA CỬA ĐỂ VÀO CHUỒNG CHIÊN
(Cv 11:1-18; Ga 10:1-10)
Lm. An-tôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
Hôm qua, chúng ta hân hoan mừng Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành và chúng ta đã cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Tiếp tục tinh thần đó, Lời Chúa hôm nay tiếp tục mời gọi chúng ta tập trung vào Người Mục Tử Nhân Lành, được trình bày trong hình ảnh của Thánh Phêrô trong bài đọc 1 và hình ảnh của Chúa Giêsu trong chương 10 của Tin Mừng Thánh Gioan. Chúng ta hãy lắng đọng và để Lời Chúa hướng dẫn và chất vấn chúng ta.
Khi chúng ta thấy ai làm một điều gì đó hoặc nói một điều gì đó khác với những điều chúng ta đã quá quen thuộc hoặc tin “là sự thật,” chúng ta thường có thái độ chống đối và phản ứng cách tiêu cực. Điều này cũng xảy ra cho Thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay. Ngài bị “các người thuộc giới cắt bì chỉ trích” vì ngài “đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ” (Cv 11:2-3). Với tấm lòng của người mục tử, Thánh Phêrô kiên nhẫn giải thích cho họ về việc Ngài đến với những người dân ngoại. Qua việc này, Thánh Phêrô cũng nhắc nhở họ rằng ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho họ, mà cho mọi người, những người chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 11:15-17). Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể rút ra những điều sau để suy gẫm:
Thứ nhất, những người thường phản ứng cách tiêu cực trước những điều mới mẻ có vẻ “thách thức” hệ thống niềm tin quen thuộc và thói quen của họ, sẽ khó để nhìn thấy và đón nhận sức mạnh canh tân của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thuộc loại này không? Chúng ta có hay phản ứng tiêu cực khi thấy người khác nói hoặc làm những việc “không hợp với khẩu vị” của mình không?
Thứ hai, ngược lại những người để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ luôn biết sáng tạo, luôn giữ cho mình được bình thản và có cái nhìn cảm thông và bao dung khi có những điều xảy ra “ngoài ý muốn” của họ.
Thứ ba, để không phản ứng tiêu cực trước những điều mình không thích và sẵn sàng đón nhận mọi sự mới mẻ từ Chúa Thánh Thần, chúng ta cần học ở Thánh Phêrô thái độ lắng nghe và tìm ý Chúa trong cầu nguyện (x. Cv 11:5). Chỉ trong thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta mới có thể hiểu được ý của Thiên Chúa trong những điều không hợp với ý của chúng ta, và như thế không ngăn cản những điều Thiên Chúa muốn thực hiện cho những người Ngài muốn ban ơn cứu độ.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã khẳng định mình là Mục Tử nhân lành: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:11-13). Khi sử dụng từ “nhân lành” [“tốt lành”] (Gk. kalos, có nghĩa là “tốt” theo nghĩa “quý phái” hoặc “mẫu mực,” tốt trong chính bản chất chứ không phải là một đặc tính được thêm vào. Nó không có nghĩa là “tốt về” một cái gì đó). Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành tự bản chất, nên Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, dù chiên có như thế nào cũng không làm cho sự tốt lành của Ngài thay đổi. Theo các học giả Kinh Thánh, hình ảnh Chúa Giêsu chết cho chiên của mình thuộc về truyền thống cuộc thương khó của các Kitô hữu tiên khởi. Khác với những mục tử xấu, những người làm thuê. Họ bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến để giết hại và phân tán đàn chiên. Họ chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân của mình chứ không màng gì đến sự sống còn của đàn chiên.
Sau khi khẳng định mình là Mục Tử Nhân Lành và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định thêm: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:14-15). Ngài thêm một đặc điểm khác của Người Mục Tử Nhân Lành là ngài ‘biết’ chiên của Ngài. Câu khẳng định trên là đặc trưng của Thánh Gioan vì nó nói về mối tương quan giữa người mục tử và chiên như là hình ảnh loại suy về mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Chính mối tương quan mật thiết với Chúa Cha là nền tảng cho hy tế của Chúa Giêsu vì đàn chiên. Hình ảnh này được sử dụng trong chương 15 (câu 12-17) để diễn tả cái chết của Chúa Giêsu trong bối cảnh của mối tương quan đó. Chính trong mối tương quan với Chúa Cha, Chúa Giêsu biết cái chết của mình cho đàn chiên là để tụ họp chúng lại trong một ràn chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Câu nói này làm chúng ta suy tư về mối tương quan giữa mục tử và chiên mà được ám chỉ đến ‘những chiên khác,’ là những người cũng nghe tiếng Chúa Giêsu. Một vài nơi khác trong Tin Mừng, điều này nói về thế hệ của những người tin trong tương lai (x. Ga 17:20; 20-29). Một khả thể khác là chúng ta có thể xem những lời trên ám chỉ những người dân ngoại, ‘những người Hy Lạp’ mà được nhắc đến hai lần trong Tin Mừng (x. Ga 7:35; 12:20-22). Vào thời gian Tin Mừng được hoàn thành, cộng đoàn của Thánh Gioan ý thức được sự hiện hữu của những cộng đoàn Kitô hữu khác, đặc biệt là những cộng đoàn bắt nguồn từ Thánh Phêrô (x. Ga 21:15-19), là người được Chúa Giêsu đặt cho danh xưng ‘mục tử.’
Chi tiết cuối cùng chúng ta có thể suy gẫm là việc Chúa Giêsu tự do hy sinh mạng sống của mình cho đàn chiên: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:17-18). Những lời này chỉ ra chìa khoá của tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu, đó chính là sự trao ban chính mình cho đàn chiên. Đây chính là tình yêu Chúa Cha đã dành cho Chúa Giêsu: đã trao ban mọi sự cho Chúa Giêsu. Một sự trao ban đầy tự do và yêu thương. Trong cuộc sống, chúng ta cũng trao ban cho người khác những thứ mình có và mình là: có người trao ban cho người khác những thứ ‘dư thừa’ của mình, có người trao ban cho người khác một tí gì đó của mình, nhưng cũng có người trao ban trọn vẹn chính mình cho người khác. Tình yêu cao đẹp nhất là tình yêu không chỉ trao ban mọi sự mình có, nhưng cả những gì mình là cho người khác với thái độ vui tươi và tự do.