THẬP GIÁ LÀ DẤU CHỨNG VINH QUANG TRONG ĐỨC KITÔ
(Cv 19:1-8; Ga 16:29-33)
Lm. An-tôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
Bài đọc 1 thuật lại cho chúng ta câu chuyện của Thánh Phaolô với cộng đoàn tín hữu ở Êphêxô. Các tín hữu ở đây đã tin theo nhưng chưa chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Trong lời rao giảng của mình, Thánh Phaolô chỉ ra sự khác biệt giữa phép rửa của Gioan và phép rửa nhân danh Chúa Giêsu: “‘Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa?’ Họ trả lời: ‘Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.’ Ông hỏi: ‘Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào?’ Họ đáp: ‘Phép rửa của ông Gioan.’ Ông Phaolô nói: ‘Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu.’ Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri” (Cv 19:2-6). Những lời này chỉ ra sự khác biệt giữa phép rửa của ông Gioan và phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Trong phép rửa nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta được đón nhận Thánh Thần để làm chứng cho Chúa Giêsu. Trong ngày rửa tội [thêm sức], chúng ta đã được Thiên Chúa ban Thánh Thần tràn ngập tâm hồn chúng ta, để chúng ta nói tiên tri, nói lời của Thiên Chúa. Nhưng theo thời gian, chúng ta để cho tâm hồn mình bị xâm chiếm bởi những “lời của thế gian.” Dần dần, tâm hồn của chúng ta có một chỗ rất nhỏ hoặc không còn chỗ cho Thánh Thần. Chúng ta chỉ còn nói lời của thế gian, chứ không còn nói lời Thiên Chúa cho nhau. Đây chính là lý do mà Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho chúng ta, để chúng ta không đánh mất đức tin của mình.
Thời gian Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh đang đến gần, tất cả những “câu đố” khó hiểu của Chúa Giêsu cho các môn đệ từ từ được làm sáng tỏ. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha, giờ đây Ngài trở về với Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta biết về việc Chúa Giêsu không còn dùng dụ ngôn để nói với các môn đệ. Đây là cuộc đối thoại thân tình cuối cùng Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Ngài bắt đầu lời “Cầu Nguyện Tư Tế” của Ngài (chương 17) và bước vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài (chương 18-21). Cuộc đối thoại cuối cùng trong phòng Tiệc Ly này nói với chúng ta điều gì?
Cuộc đối thoại này bao gồm câu khẳng định từ các môn đệ và câu “bình luận” từ Chúa Giêsu. Chúng ta sắp xếp lại như sau:
Các môn đệ: “Bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16:29-30).
Chúa Giêsu: “Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:31-33).
Trong câu khẳng định của mình, các môn đệ hãnh diện là Chúa Giêsu không còn dùng dụ ngôn để nói với họ, nhưng đã nói rõ mọi sự. Như vậy, họ nhận ra rằng Chúa Giêsu biết hết mọi sự và họ không cần phải đi đâu để hỏi về bất cứ chuyện gì như họ đã từng làm (x. 13:33-14:31). Vì họ nhận ra Chúa Giêsu biết hết mọi sự, nên họ tin Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Những lời này nói lên khát vọng của mỗi người chúng ta, đó là được biết Thiên Chúa cách rõ ràng, không còn phải băn khoăn tìm kiếm câu trả lời. Nhưng các môn đệ chỉ ra cho chúng ta biết, chỉ nơi Chúa Giêsu, Đấng biết hết mọi sự, chúng ta mới có thể tìm thấy câu trả lời thích đáng cho mình. Nhiều người trong chúng ta mong được biết rõ về Thiên Chúa để niềm tin của mình được vững mạnh không bị lung lay. Khi đọc những lời trong đối thoại của các môn đệ, chúng ta cần lưu ý đến công thức “biết để tin.” Các môn đệ hãnh diện là đã được Chúa Giêsu nói rõ mọi sự và họ đã nhận ra Ngài biết hết mọi sự, hệ quả là họ cũng sẽ được biết hết mọi sự. Và từ cái biết này họ tin vào Chúa Giêsu. Niềm tin của họ được đặt nền trên sự hiểu biết. Đây là điều mà nhiều người trong chúng ta đang làm. Chúng ta cũng muốn biết và hiểu hết mọi sự để rồi tin. Sống trong một thế giới chỉ lưu ý đến “sự hào nhoáng” bên ngoài và đặt nặng vấn đề trí thức và muốn mọi sự phải được chứng minh bằng các công thức khoa học, cấp độ tin của chúng ta lệ thuộc vào cấp độ chứng minh của chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đứng trước công thức này, Chúa Giêsu đã nói lên “nhận định” của mình.
Chúa Giêsu bắt đầu “nhận định” của mình với câu hỏi: “Bây giờ anh em tin à?” Tiếp theo Ngài nói cho các môn đệ biết về sự thật của niềm tin mong manh, niềm tin được đặt trên sự hiểu biết giới hạn của họ. Sự thật đó là: Họ sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Chúa Giêsu cô độc một mình. Chúng ta cần lưu ý rằng, cuộc thương khó trong Tin Mừng Thánh Gioan không nói đến lời tiên báo này, vì người môn đệ Chúa Giêsu yêu không bỏ chạy, nhưng hiện diện dưới chân thập giá (x. Ga 19:26-27), và các môn đệ vẫn tụ họp với nhau ở Giêrusalem (x. Ga 20:19). Truyền thống thì nói việc họ trở về Galilê được thêm vào trong phần trình thuật về những câu chuyện phục sinh của Chúa Giêsu (x. Ga 21:1-14). Từ chi tiết này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin của chúng ta luôn mong manh và mỏng giòn. Khi đặt niềm tin trên sự hiểu biết, niềm tin đó luôn có giới hạn vì trí hiểu của chúng ta luôn có giới hạn, nhưng khi đặt niềm tin trên tình yêu [như người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến], chúng ta sẽ đứng vững trong thử thách, đứng vững dưới chân thập giá Chúa Giêsu dù chúng ta không hiểu [hay đúng hơn chưa hiểu]những gì Thiên Chúa muốn thực hiện trên cuộc đời của chúng ta. Chúng ta đang đặt niềm tin của mình trên sự hiểu biết hay tình yêu?
Một điểm khác đáng chúng ta suy gẫm trong câu khẳng định của Chúa Giêsu về việc Ngài “không cô đơn” dù các môn đệ “phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình,” vì “Chúa Cha luôn ở với Thầy.” Chi tiết này là chân lý giúp chúng ta cảm thấy được an ủi khi mọi người bỏ rơi chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đã có lần phải đối diện với tình trạng bị bỏ rơi, phản bội hoặc lãng quên. Trong những trường hợp như thế, chúng ta cảm thấy cô đơn. Nhưng Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng, dù mọi người bỏ rơi và để chúng ta cô độc một mình, thì Thiên Chúa cũng không để chúng ta cô độc một mình, vì Ngài luôn ở với chúng ta. Câu hỏi chúng ta cần trả lời ở đây là: Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, còn chúng ta có luôn ở với Ngài không? Những người không luôn kết hiệp với Thiên Chúa [hoặc không cảm nghiệm được việc Chúa luôn ở với mình], thường cảm thấy cô đơn!
Điểm cuối cùng đáng chúng ta quan tâm, đó là việc Chúa Giêsu khẳng định rằng chỉ ở trong Ngài, các môn đệ mới được bình an. Điểm này bao gồm lời hứa bình an và lời khẳng định “Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian.” Nói cách khác, các môn đệ tìm được bình an trong Chúa Giêsu vì sự bình an là hoa trái của thập giá mà qua đó Ngài đã chiến thắng thế gian. Thập giá không phải là vinh quang cho những ai chống đối Chúa Giêsu; cũng không phải là vinh quang cho cộng đoàn Thánh Gioan đang phải chịu sự bách hại. Khi các môn đệ hiểu được những gì đã xảy ra trong “giờ” mà qua đó Chúa Giêsu được tôn vinh, các môn đệ mới nhận ra rằng thập giá và sự đau khổ trong bách hại là vinh quang của Chúa Giêsu. Như vậy, sự bình an mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ không có nghĩa là không có đau khổ và thập giá, nhưng là hoa trái của tình yêu, của việc cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi chúng ta khi chúng ta đau khổ. Hãy can đảm trong đau khổ vì Chúa Giêsu đã chiến thắng thế gian, chiến thắng sự chết!