ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO CHÚA
(Cv 13:26-33; Ga 14:1-6)
Lm. An-tôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
Hành trình rao giảng của Thánh Phaolô đã đưa ngài đến thành Antiôkhia, nơi lần đầu tiên những người môn đệ của Chúa Giêsu được gọi là “Kitô hữu.” Khi đọc sách Công Vụ Các Tông Đồ, một chi tiết chúng ta thường nhận ra đó là các Tông Đồ không để qua cơ hội nào mà không rao giảng về Đức Giêsu Kitô. Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô luôn nắm bắt cơ hội để rao giảng Tin Mừng và chúng ta thường thấy ngài trong các hội đường. Chúng ta vẫn thường nghe thấy danh từ “hội đường.” Nhưng “hội đường là gì? Theo nguyên ngữ [tiếng Hy Lạp], “hội đường” có nghĩa là “tụ họp mọi người,” nhưng nó cũng ám chỉ nơi tụ họp. Theo sử gia cổ đại Josephus [trong Antiquities], hội đường được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, như nơi để cầu nguyện, nơi để Lời Chúa được công bố và giải thích, trường học [Kinh Thánh], nơi những bữa ăn chung diễn ra, toà án xét xử, nơi các cuộc họp chính trị được tổ chức, nơi nhận và phân phát quà từ thiện.
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Phaolô đã sử dụng hội đường như nơi để rao giảng Tin Mừng. Nội dung của lời rao giảng của thánh nhân xoay quanh mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu, hay chúng ta còn gọi là Kerygma. Ngài cố gắng chứng minh cho mọi người rằng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng đến hoàn thành lời hứa Thiên Chúa đã hứa với Abraham và con cháu của ông. Lời hứa này được hoàn thành trong sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Điều này giải thích lý do tại sao người Do Thái không nhận biết Đức Giêsu Kitô (Cv 13:27). Đó là vì họ mong chờ một Đấng Cứu Độ “không chịu đau khổ, không chết và không sống lại”; họ mong chờ một Đấng Cứu Độ đến để giải thoát họ khỏi quyền lực của ngoại xâm, chứ không phải khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta điều gì? Thường ngày trong cuộc sống, khi chúng ta mong chờ một cái gì đó, chúng ta thường mong muốn điều đó xảy ra theo cách thức chúng ta muốn. Hoặc khi ai hứa với chúng ta một điều gì, chúng ta thường “tưởng tượng” ra cách thức người đó thực hiện lời hứa của mình theo cách chúng ta vạch ra. Khi sự việc xảy ra không theo cách thức chúng ta mong muốn, chúng ta thường có những phản ứng tiêu cực.
Theo Thánh Phaolô, lời Thiên Chúa hứa với chúng ta sẽ không được thực hiện nếu Đức Giêsu Kitô không sống lại. Đây chính là Tin Mừng chúng ta loan báo: “Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv 13:32-33). Những lời này giúp chúng ta nhận ra nội dung của việc loan báo Tin Mừng, đó là Đức Giêsu là Đấng đã đến để hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa cho con người qua cuộc khổ nạn, phục sinh và lên trời của Ngài. Việc rao giảng của chúng ta phải được thực hiện qua chính cuộc sống “cũng được phục sinh với Chúa Giêsu.” Nói cách khác, sự sống mới đầy yêu thương, cảm thông và tha thứ trong Đức Kitô là cách thức rao giảng hiệu quả nhất mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ biết Ngài chính là con đường đến cùng Chúa Cha. Phần này bắt đầu và kết với hai mệnh lệnh ‘tin’ vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu (câu 1 và 11). Hai mệnh lệnh này muốn nói rằng, nếu chúng ta không tin vào lời Chúa Giêsu, thì “các công việc” của Ngài là nền tảng để biết rằng Chúa Giêsu và Chúa Cha là một (x. Ga 10:37-38). Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta rằng: Tin vào lời đôi khi rất khó. Nhưng nhìn thấy việc làm để tin có vẻ dễ hơn. Nhưng nếu nhìn vào việc làm mà không đọc được ý nghĩa của những gì nhìn thấy thì cũng khó đi đến việc tin. Khả năng đọc được ý nghĩa những gì xảy ra trong đời sống thường ngày là điều cần thiết để nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang hoạt động với chúng ta.
Những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ mang một cung giọng đầy yêu thương, đầy an ủi của một người sắp đi xa để lại cho những người ở lại: “Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: ‘Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi’” (Ga 14:1-4). Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Chính niềm tin này giúp họ hiểu rằng Chúa Giêsu luôn đi trước họ trong mọi sự [trong cái chết và sự phục sinh]để chuẩn bị cho họ một chỗ trong kế hoạch của Thiên Chúa, hay trong nhà Cha của Ngài. Trong những lời trên, điều làm chúng ta suy gẫm là việc Chúa Giêsu nói lên ước muốn của mình, đó là Ngài ở đâu thì Ngài muốn các môn đệ ở đó với Ngài. Như chúng ta biết, Chúa Giêsu luôn ở trong nhà Cha của Ngài, trong cung lòng của Chúa Cha, hay cụ thể hơn là trong tình yêu của Chúa Cha. Ngài muốn tất cả chúng ta ở trong đó với Ngài. Ngài đã chuẩn bị một chỗ cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có muốn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa không? Dấu hiệu của người ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là sống đời sống yêu thương và tha thứ, luôn sẵn sàng chết đi cho chính mình và sống đời sống mới trong sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Khi Chúa Giêsu nói về chỗ ở trong nhà Cha Ngài, là nơi Ngài sẽ đến, nhưng các môn đệ vẫn không hiểu Ngài đi đâu. Vì vậy, “ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (Ga 14:5). Trước câu hỏi của Tôma, Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Trong những lời này, Chúa Giêsu khẳng định mình là “đường,” trong khi đó “sự thật” và “sự sống” nhấn mạnh việc khẳng định “đường” với hai hình ảnh mang tính cứu độ học trong Tin Mừng, đó là Chúa Giêsu không chỉ là Người đưa chúng ta đến ơn cứu độ, nhưng Ngài còn là nguồn sống và sự thật (x. Ga 5:26; 10:10,28; 11:25-26). Chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới tìm thấy được con đường đạt đến sự sống sung mãn. Nơi Ngài, chúng ta tìm thấy được sự thật về Thiên Chúa và ơn gọi của mỗi người chúng ta, vì Ngài là Chúa thật và là người thật.